Truy cập nội dung luôn
SỞ TÀI CHÍNH

TỈNH QUẢNG NGÃI

Chìa khóa phát triển bền vững dựa trên dữ liệu số

26/09/2023 11:03    38

Chìa khóa phát triển bền vững dựa trên dữ liệu số

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội (KT-XH) giai đoạn 2021-2030 đã xác định: “Phát triển nhanh và bền vững dựa chủ yếu vào khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số”. Thực hiện quan điểm phát triển của Chiến lược, ngành Tài chính đang tiên phong chủ động triển khai Kế hoạch Chuyển đổi số đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 với mục tiêu gắn chuyển đổi số với xây dựng nền tài chính quốc gia phát triển bền vững (PTBV), hiện đại và hội nhập, góp phần thúc đẩy tăng trưởng, tăng cường khả năng chống chịu của nền kinh tế. Kế hoạch chuyển đổi số hướng tới nền tài chính thông minh được thực hiện trên cơ sở ‘dữ liệu” là tài nguyên, “nền tảng” là giải pháp đột phá.

Ảnh: Quang Minh.

Ảnh: Quang Minh.

 

Đây là những chìa khóa quan trọng cho quá trình xây dựng, hình thành hệ sinh thái Tài chính số phong phú, hiện đại trên mọi lĩnh vực, đảm bảo huy động nguồn lực cho mục tiêu phát triển kinh tế bền vững. Chuyên trang Tin học và Thống kê tài chính xin giới thiệu nội dung bài tham luận của Viện Chiến lược và chính sách tài chính xung quanh việc xây dựng dữ liệu số trong công tác huy động và quản lý thu ngân sách nhà nước (NSNN), đặc biệt trong các lĩnh vực thuế, hải quan; chỉ ra những khó khăn thách thức và đề xuất giải pháp về dữ liệu số trong huy động nguồn lực tài chính - NSNN.

Vai trò của dữ liệu số trong huy động nguồn lực từ NSNN cho phát triển bền vững

Trong xu thế phát triển nhanh của chuyển đổi số hiện nay, dữ liệu lớn đang trở thành nguồn lực thông tin quan trọng của đất nước, hay dữ liệu chính là nguồn tài nguyên mới. Cùng với kết nối, việc khai thác dữ liệu là yếu tố quan trọng trong chuyển đổi số. Việc ưu tiên tập trung phát triển và phân tích dữ liệu tạo ra cơ hội mới để định hình lại lợi thế cạnh tranh của quốc gia.

Với khối lượng dữ liệu ngày càng lớn, đa dạng và phức tạp, không thể dễ dàng quản lý bằng các phương pháp quản lý dữ liệu truyền thống thì việc sử dụng hệ thống nền tảng công nghệ thông tin (CNTT) trong lưu trữ, phân tích, xử lý số liệu là động lực chính cho tiến trình chuyển đổi số. Viện Công nghệ Masachusetts đánh giá, dữ liệu số là một trong bốn trụ cột quan trọng của quá trình chuyển đổi số, bao gồm: Dữ liệu số (thu thập, xử lý và phân tích dữ liệu kỹ thuật số giúp dự báo và ra quyết định tốt hơn); Tự động hóa (sự tích hợp công nghệ với trí tuệ nhân tạo (AI) tạo động lực cho các hệ thống hoạt động tự động và có tổ chức, giúp giảm lỗi và chi phí vận hành, đồng thời tăng tốc độ xử lý); Khả năng kết nối (sự kết nối của tất cả các hệ thống thông qua mạng viễn thông băng thông rộng đồng bộ hóa chuỗi cung ứng và giảm thời gian sản xuất); Tiếp cận khách hàng kỹ thuật số (việc truy cập Internet cho phép doanh nghiệp tiếp cận khách hàng tức thì, minh bạch, đầy đủ). Tương tự, Rahul Singh, Giám đốc điều hành Công ty Tư vấn chuyển đổi dịch vụ kinh doanh và IT Pace Harmon nhấn mạnh, khả năng phân tích một lượng lớn dữ liệu để có được những thông tin chi tiết là cơ sở nền tảng của hầu hết các nỗ lực chuyển đổi số, vì thông tin chi tiết thu được thông qua phân tích dữ liệu số được sử dụng để thúc đẩy quá trình số hóa và tự động hóa quy trình làm việc. Todd Wright, chuyên gia hàng đầu về dữ liệu cá nhân tại SAS (công ty chuyên cung cấp các giải pháp chuyển đổi dữ liệu) nhận định: “Chuyển đổi số là quá trình chuyển đổi doanh nghiệp, tổ chức đưa ra quyết định dựa trên cơ sở dữ liệu. Việc nắm bắt và phân tích, số hóa dữ liệu là điều cần thiết cho các nỗ lực của chuyển đổi số”.

Việc chuyển đổi số, áp dụng công nghệ hiện đại cho phép tăng tính chính xác trong quản lý nhà nước trong lĩnh vực tài chính mà tiêu biểu là lĩnh vực quản lý thuế và hải quan.

Trong lĩnh vực quản lý thuế, hệ thống dữ liệu được số hóa cho phép các cơ quan nhà nước có khả năng quản lý số lượng lớn hơn các thủ tục hành chính. Hệ thống dữ liệu lớn các thủ tục hành chính (TTHC) được cập nhật, rà soát, phân hệ một cách logic giúp doanh nghiệp, người nộp thuế dễ dàng truy cập, sử dụng, tra cứu thực hiện các thủ tục về thuế một cách nhanh chóng, hiệu quả, chính xác. Việc số hóa cho phép quá trình thực hiện TTHC của người dân, doanh nghiệp trong lĩnh vực thuế được diễn ra ở mọi lúc, mọi nơi, mọi thời điểm, thay vì phải đến trụ sở các cơ quan thuế.

Trong đó, việc xây dựng cơ sở dữ liệu, công cụ phân tích dữ liệu đóng vai trò quan trọng trong công tác huy động và quản lý nguồn lực tài chính, đáp ứng yêu cầu của sự phát triển, hỗ trợ tối đa người dân, doanh nghiệp, cũng như quản lý, giám sát nguồn thu hiệu quả, giảm gian lận thuế. Đồng thời, xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu lớn là một công cụ phân tích quan trọng trong xây dựng chính sách thu hợp lý, đảm bảo nguồn thu bền vững cho phát triển đất nước. Hệ thống dữ liệu số hiện đại giúp người nộp thuế có cơ hội kiểm tra, tra hỏi, trích soát các khoản thuế đã nộp cũng như các khoản thuế đến hạn phải nộp. Thông qua dữ liệu số sẽ phản ánh đầy đủ các dữ liệu về cơ sở các khoản thuế, phí phải nộp, từ đó, cho phép người nộp thuế kiểm tra, giám sát các quyết định thuế tự động.

Xây dựng cơ sở dữ liệu chính xác, đầy đủ, kịp thời, góp phần tăng cường hiệu quả, hiệu lực quản lý và giảm thiểu các rủi ro trong ngành Tài chính nói chung, lĩnh vực thuế, hải quan nói riêng. Cụ thể, việc xây dựng cơ sở dữ liệu ngành Thuế, tiến tới cơ chế tự động kiểm tra chéo một cách có hệ thống các thông tin từ bên thứ ba nhằm phát hiện các nội dung tiềm ẩn rủi ro dẫn tới sai lệch trong hồ sơ khai thuế; hoàn thành kết nối cơ sở dữ liệu ngành Thuế với cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và các cơ quan quản lý nhà nước, các bên có liên quan, ứng dụng các thành tựu mới về công nghệ nhằm xử lý tự động quy trình nghiệp vụ quản lý thuế và phân tích dữ liệu lớn phục vụ công tác hoạch định chính sách, dự báo số thu, tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế, quản lý rủi ro thuế, quản lý tuân thủ và thanh tra, kiểm tra thuế, điều tra thuế…

Trong lĩnh vực hải quan, việc sử dụng các hệ thống hải quan tự động tạo thuận lợi cho thương mại thông qua việc chuẩn hóa các biểu mẫu và chứng từ, chuẩn hóa dữ liệu, đơn giản hóa và tin học hóa các thủ tục thông quan để đẩy nhanh quá trình thông quan hàng hóa. Tối ưu hóa, tự động hóa và số hóa các quy trình, thủ tục và nghiệp vụ trong lĩnh vực hải quan là nền tảng của quá trình hiện đại hóa và hình thành hệ thống dữ liệu chất lượng cao nhằm triển khai các hệ thống quản lý rủi ro mạnh mẽ và hiệu quả. Hệ thống hải quan đổi mới theo hướng tự động hóa các quy trình, nghiệp vụ còn góp phần cung cấp cho Chính phủ số liệu thống kê chính xác và kịp thời về số thu ngân sách và tình hình ngoại thương của mỗi quốc gia. Nhờ đó, một mặt việc thu thuế và các nghĩa vụ được đảm bảo minh bạch, chính xác, giảm thiểu gian lận, cải thiện mối quan giữa cơ quan hải quan và khu vực tư nhân, đồng thời xây dựng được một cơ sở dữ liệu thống kê cho các mục đích chính sách kinh tế và tài khóa.

Năm 2022, với chủ đề “Thúc đẩy chuyển đổi hải quan số bằng việc áp dụng văn hóa khai thác dữ liệu và xây dựng hệ sinh thái dữ liệu”, Tổ chức Hải quan Thế giới (WCO) nhấn mạnh vào một khía cạnh khác của hải quan số đó là tầm quan trọng của các dữ liệu sẵn có, của việc hợp tác với các bên liên quan để thu thập dữ liệu có chất lượng và việc tận dụng nguồn dữ liệu này phục vụ nghiệp vụ hải quan. Như vậy, hải quan thông minh, hải quan số, hay biên giới thông minh là một quá trình tất yếu của việc vận dụng, tận dụng và ứng dụng công nghệ hiện đại, dữ liệu vào các hoạt động nghiệp vụ, quy trình thủ tục hải quan nhằm thực hiện các nhiệm vụ cơ bản của cơ quan hải quan là tạo thuận lợi thương mại, thu thuế và đảm bảo an ninh, an toàn xã hội.

Ở Việt Nam, dữ liệu số đóng một vai trò quan trọng trong quá trình chuyển đổi số của ngành Tài chính nói chung và công tác huy động nguồn lực tài chính cho PTBV nói riêng. Đảm bảo chất lượng dữ liệu và tăng cường quản lý dữ liệu là một nền tảng quan trọng trong quá trình đổi mới quản lý thu NSNN, xây dựng cơ chế chính sách huy động, phát triển nguồn lực và tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp, đảm bảo nền tài chính quốc gia bền vững.

Kinh nghiệm xây dựng dữ liệu số trong huy động, quản lý nguồn lực ngân sách tại một số nước trên thế giới

Tầm quan trọng của dữ liệu số trong quá trình chuyển đổi số công tác huy động và quản lý thu NSNN tiếp tục được khẳng định tại các quốc gia trên thế giới. Kinh nghiệm các nước cho thấy, xây dựng hệ thống dữ liệu số là một trong những trụ cột quan trọng, tiên phong để quá trình chuyển đổi số thành công. Theo OECD, khoảng 75% cơ quan quản lý thuế trên toàn cầu đã sử dụng kỹ thuật tiên tiến như học máy, AI để khai thác dữ liệu theo cách giải phóng nguồn lực quản lý thuế. Các nguồn thông tin không chỉ từ người nộp thuế mà còn được trích xuất từ nguồn thông tin bên thứ ba như ngân hàng và các tổ chức lao động, đối tác kinh doanh và các cơ quan chính phủ khác.

Tại Trung Quốc, hệ thống thuế mang tên Golden Tax IV đã được phát triển, trong đó, dữ liệu của doanh nghiệp cũng như thông tin của chủ sở hữu, giám đốc cấp cao, hệ thống ngân hàng và cơ quan quản lý thị trường sẽ được kết nối với nhau. Việc kết nối dữ liệu không chỉ giúp quá trình thực hiện các quy trình, nghiệp vụ thuế của các đối tượng liên quan được xử lý nhanh hơn, mà còn giúp nâng cao hiệu quả giám sát của cơ quan thuế. Golden Tax IV sẽ giúp các cơ quan thuế kiểm tra không chỉ hóa đơn mà còn cả hoạt động kinh doanh, dòng vốn, nhân sự và các dữ liệu khác của doanh nghiệp. Điều này sẽ giúp cơ quan thuế dễ dàng phát hiện hành vi trốn thuế, thông qua hệ thống chia sẻ thông tin và phân tích big data, cơ quan thuế sẽ có được chính xác bức chân dung của từng doanh nghiệp và cá nhân người nộp thuế. Việc nâng cấp hệ thống này sẽ giúp Trung Quốc chuyển đổi từ quản lý thuế thông qua hóa đơn sang quản lý thuế bằng big data và điện toán đám mây. Bên cạnh đó, dự án Nghìn nhóm (The Thousand Group Project) đã được triển khai bởi cơ quan quản lý thuế từ năm 2016, áp dụng phương pháp tiếp cận rủi ro dựa trên dữ liệu. Dự án yêu cầu dữ liệu thuế, thông tin tài chính, kế toán và các thông tin khác của hàng nghìn nhóm doanh nghiệp, bao gồm các nhóm doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp đa quốc gia… Sau đó, cơ quan quản lý thuế STA thực hiện phân tích để xác định rủi ro về thuế, khả năng không tuân thủ. Đối với các công ty niêm yết nằm trong kế hoạch phân tích rủi ro hàng năm, dựa trên hệ thống mô hình chỉ báo rủi ro thuế, việc quét hệ thống được thực hiện để thiết lập báo cáo xác định rủi ro thuế cho các nhóm doanh nghiệp liên quan và các công ty thành viên của họ. Kết quả phân tích thuế sẽ được gửi đến các cục thuế địa phương phụ trách các nhóm cụ thể để có hành động tiếp theo. Cơ quan quản lý thuế trung ương cũng đã lên kế hoạch thiết lập một cơ chế liên lạc để thảo luận và thống nhất với nhau về các vấn đề thuế nhất định trước khi gửi cho các cơ quan quản lý thuế địa phương.

Tại Ấn Độ, cơ quan thuế đã thiết lập nền tảng kho dữ liệu tích hợp và thông minh (DW&BI), nhằm phát hiện các vấn đề về thất thu ngân sách để cải thiện chính sách, nâng cao hiệu quả hoạt động quản lý thuế. Dự án “Project Insights” là dự án hàng đầu của Bộ Tài chính nhằm mở rộng cơ sở tính thuế dựa trên công nghệ. Công cụ phân tích sẽ thu thập dữ liệu không chỉ từ các nguồn như ngân hàng và tổ chức tài chính, mà còn từ các trang mạng xã hội, để hình thành nên các hình mẫu tiêu dùng, sử dụng như dữ liệu đầu vào khi kê khai thu nhập. Công cụ cho phép thu thập, liên kết và phân tích dữ liệu có cấu trúc và phi cấu trúc để nhận biết người không lập hồ sơ/báo cáo thu nhập dưới mức; Sử dụng nhiều phương pháp và công nghệ phân tích (phân tích mô tả, phân tích chẩn đoán, dự đoán phân tích…) để nhận diện vấn đề và tìm nguyên nhân; Sử dụng cách tiếp cận hợp tác để chia sẻ thông tin và kiến ​​thức; Xử lý trước thông tin để có nguồn tài nguyên miễn phí cho phân tích và điều tra hiệu quả. Dự án thành lập 2 trung tâm, gồm: Trung tâm phân tích giao dịch thuế thu nhập (INTRAC) tận dụng phân tích dữ liệu trong quản lý thuế và thực hiện các nhiệm vụ liên quan đến tích hợp dữ liệu, xử lý dữ liệu, giám sát chất lượng dữ liệu, lưu trữ dữ liệu, quản lý dữ liệu tổng thể, phân tích dữ liệu, khai thác web và/hoặc văn bản, tạo cảnh báo, quản lý tuân thủ, báo cáo doanh nghiệp và hỗ trợ nghiên cứu; Trung tâm xử lý tập trung quản lý tuân thủ (CMCPC), sẽ sử dụng phương pháp quản lý chiến dịch, bao gồm e-mail, SMS, lời nhắc, cuộc gọi đi và thư, để hỗ trợ việc tuân thủ tự nguyện và giải quyết các vấn đề tuân thủ thuế.

Tự động hóa quy trình thương mại dựa trên dữ liệu là hoạt động trọng tâm trong nỗ lực chuyển đổi số của Cơ quan Hải quan và Bảo vệ Biên giới Hoa Kỳ (United States Customs and Border Protection - CBP). Bắt đầu từ giữa những năm 1990, hệ thống xử lý hàng hóa mới là Môi trường thương mại tự động (Automated Commercial Environment - ACE) được đưa vào hoạt động nhằm giúp Chính phủ Hoa Kỳ thu thuế, phân tích rủi ro, cũng như xử lý các chuyến hàng quốc tế đến và đi khỏi đất nước. ACE giúp CBP xem xét thông tin về các lô hàng trên toàn quốc. CBP cũng cho phép các nhà nhập khẩu gửi sớm bản tóm tắt các thông tin bắt buộc phải khai trong quy trình nhập khẩu, từ đó có thể xác định sớm các vấn đề đối với hàng hóa để có giải pháp khắc phục. Đồng thời, có thể dự báo về cả chuỗi cung ứng của doanh nghiệp, từ đó đưa ra quyết định dừng lại và kiểm tra lô hàng hay không, đồng thời để doanh nghiệp có thể đưa ra quyết định đối với lô hàng đó.

Theo Chiến lược 2021-2026 của CBP về các mục tiêu trong giai đoạn tiếp theo cho thấy, dữ liệu và phân tích dữ liệu đóng vai trò quan trọng trong quản lý nguồn thu NSNN, do vậy chiến lược đã đặt ra yêu cầu về duy trì nguồn dữ liệu đáng tin cậy nhằm áp dụng trong phân tích chuyên sâu, cung cấp thông tin cho các quyết định chính sách quan trọng. Để thực hiện những yêu cầu đó, cần: Sử dụng dữ liệu phân tích chuyên sâu để dự báo xu hướng, sử dụng dữ liệu chất lượng để đưa ra các quyết định điều hành, quyết định chính sách; Thu thập và kết nối dữ liệu liên quan đến hoạt động thực thi thương mại và biên giới; Thực hiện chia sẻ dữ liệu để tạo ra nhiều giá trị hơn và nâng cao hiệu quả cho CBP, đồng thời vẫn đảm bảo quyền riêng tư và bảo mật dữ liệu. Ngoài ra, tăng cường khả năng truy cập an toàn vào cơ sở hạ tầng công nghệ để thực hiện nhiệm vụ quản lý hải quan.

Cơ quan Hải quan Hàn Quốc (KCS - Korea Customs Service) phát triển một hệ thống thông quan điện tử gọi là UNI-PASS, trong đó UNI là viết tắt của tính thống nhất, phổ quát, độc nhất (Unified, Universal, Unique) và PASS có nghĩa là dịch vụ thông quan nhanh chóng và hiệu quả. UNI-PASS giúp tính toán các thủ tục hải quan và cung cấp cho việc tự động hóa quy trình thông quan, như một giải pháp để khắc phục sự gia tăng khối lượng thương mại và khách du lịch, với nguồn lực hạn chế có sẵn. UNI-PASS bao gồm 77 mô-đun và có năm hệ thống trực thuộc: hệ thống một cửa hải quan; hệ thống quản lý thông quan; hệ thống quản lý hàng hóa; hệ thống quản lý thông tin; và hệ thống hỗ trợ doanh nghiệp. UNI-PASS có tính linh hoạt và tương thích cao, đồng thời sử dụng CNTT tiên tiến để cung cấp dịch vụ hải quan chất lượng cao. UNI-PASS góp phần cải thiện quản lý hải quan (tăng nguồn thu, nâng cao tính minh bạch và chống tham nhũng, dịch vụ một cửa, cải thiện môi trường làm việc và tìm kiếm sự thuận tiện), tối đa hóa năng suất (tạo ra hải quan điện tử linh hoạt và xây dựng nền tảng cho cấu trúc chia sẻ thông tin liên ngành và cổng thương mại quốc tế), đồng thời nâng cao hiệu quả và tuân thủ trong thông quan và thương mại (tăng cường khả năng cạnh tranh thương mại bằng cách giảm thời gian làm thủ tục thông quan, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và quốc gia).

Tổng cục Hải quan (DGA - General Directorate of Customs) của Cộng hòa Dominica hướng tới văn hóa dữ liệu, phân tích dữ liệu để đưa ra quyết định về chính sách hải quan. Tổng cục đã thành lập một bộ phận phụ trách về kế hoạch, phân tích kinh tế, thống kê và kinh doanh thông minh để thúc đẩy quy trình này. Kho dữ liệu của Dominica bao gồm các thông tin xuất nhập khẩu sạch, các dữ liệu ghi lại bảng phân tích số thu theo từng loại thuế quan và từng loại hình doanh thu. Các ứng dụng được phát triển nhằm mục đích thu thập và phân tích các loại thông tin khác nhau về các luồng thương mại chuyên sâu và xác định hồ sơ, hành vi của người nộp thuế. Thông tin được quan tâm đặc biệt bao gồm dữ liệu từ Tổng cục Thuế nội địa (DGII), dữ liệu thị trường, dữ liệu liên quan đến việc chuyển container và thanh toán phí xử lý. Kế hoạch chiến lược của DGA 2022-2026 hướng tới mục tiêu hoàn thiện hệ thống dữ liệu lớn tạo chuẩn mực về mặt quản lý và hoạt động như một trung tâm thương mại kết nối khu vực Caribe với thế giới, với tầm nhìn thúc đẩy phát triển kinh tế một cách hiệu quả và bao trùm, và nhiệm vụ chính là tạo thuận lợi cho thương mại hợp pháp và bảo vệ xã hội, đồng thời cải thiện thu ngân sách và đảm bảo tính minh bạch.

Kết quả đạt được và một số khó khăn, thách thức

Trong thời gian qua, công tác cải cách hiện đại hóa các quy trình, nghiệp vụ của Bộ Tài chính đã ngày càng thực chất hơn, hướng tới hiện đại, bao quát đầy đủ các lĩnh vực. Hệ thống thông tin quản lý chuyên ngành ngày càng đầy đủ, hiện đại, tạo thuận lợi cho công tác quản lý tài chính - NSNN, như: Hệ thống thông tin quản lý Ngân sách và Kho bạc (TABMIS), hệ thống quản lý thuế tập trung (TMS), hệ thống tự động hóa thủ tục hải quan và hải quan một cửa Quốc gia (VNACCS/VCIS), hệ thống quản lý nợ và phân tích tài chính (BMFAS), hệ thống trao đổi dữ liệu số ngành Tài chính (trung tâm trao đổi thông tin thu NSNN)… Việc triển khai hạ tầng số, đặc biệt là hệ thống dữ liệu số ngành Tài chính đã góp phần cải cách TTHC mạnh mẽ, tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp, cũng như nâng cao hiệu quả, hiệu lực trong quản lý tài chính - NSNN, đặc biệt là các quy trình, nghiệp vụ về huy động nguồn lực tài chính công.

Đối với lĩnh vực thuế, hệ thống dữ liệu số của ngành đã ngày càng được hoàn thiện từ các quy trình liên quan như khai thuế, đăng ký thuế, nộp thuế, kế toán thuế, quản lý nợ thuế… Hệ thống khai thuế điện tử đã được triển khai tại 63/63 tỉnh thành phố và 100% chi cục thuế trực thuộc; đã có trên 99% doanh nghiệp sử dụng khai, nộp và hoàn thuế điện tử. Hệ thống hóa đơn điện tử cũng đã được triển khai thực hiện trên 63 tỉnh thành cho 100% doanh nghiệp, tổ chức, hộ cá nhân kinh doanh.

Trong 8 tháng năm 2023, tổng số lượng hóa đơn điện tử (HĐĐT) mà ngành Thuế đã tiếp nhận và xử lý ước đạttrên 05 tỷ hóa đơn, trong đó ước đạt trên 1,5 tỷ hóa đơn có mã và ước đạt trên 3,5 tỷ hóa đơn không mã. Đối với công tác triển khai HĐĐT khởi tạo từ máy tính tiền, có 30.058 doanh nghiệp (DN), cá nhân kinh doanh đăng ký sử dụng HĐĐT có mã của cơ quan thuế khởi tạo từ máy tính tiền với số lượng hóa đơn có mã khởi tạo từ máy tính tiền ước đạt 21,29 triệu hóa đơn. Tổng số lượng hóa đơn điện tử (HĐĐT) đã tiếp nhận và xử lý ước đạt trên 4,9 tỷ hóa đơn, trong đó có trên 1,5 tỷ đồng hóa đơn có mã; trên 3,5 tỷ hóa đơn không mã. Có 30.058 DN, cá nhân kinh doanh đăng ký sử dụng HĐĐT có mã của cơ quan thuế khởi tạo từ máy tính tiền với số lượng hóa đơn có mã khởi tạo từ máy tính tiền ước đạt 21,29 triệu hóa đơn. Đối với việc triển khai dịch vụ đăng ký, nộp thuế điện tử qua ứng dụng Etax Mobile đã có 527.618 lượt tải và cài đặt, sử dụng ứng dụng eTax Mobile với 558.098 giao dịch với tổng số tiền đã nộp thành công 1.759,4 tỷ đồng

Việc chính thức đưa vào vận hành, triển khai “Hệ thống phân tích cơ sở dữ liệu và quản lý HĐĐT”, cơ quan thuế các cấp đang tập trung thực hiện rà soát, phân tích để kịp thời phát hiện các dấu hiệu rủi ro trong việc phát hành HĐĐT, giúp ngăn ngừa, xử lý các trường hợp vi phạm pháp luật về hóa đơn chứng từ nói riêng và về thuế nói chung góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế cũng như tạo môi trường kinh doanh lành mạnh bình đẳng cho cộng đồng doanh nghiệp (DN) và người nộp thuế (NNT).

Bên cạnh đó, công tác quản lý thuế đối với TMĐT đã có những kết quả như: hiện đã có 62 NCCNN đăng ký, khai thuế và nộp thuế qua Cổng TTĐT dành cho NCCNN. tổng số thuế các NCCNN đã khai. nộp là 5.803 tỷ đồng; Đối với Cổng tiếp nhận thông tin TMĐT trong nước đã có 347 sàn TMĐT gửi dữ liệu cung cấp thông tin cho cơ quan thuế.

Trong lĩnh vực hải quan, ứng dụng CNTT đã có bước tiến quan trọng. Ngành hải quan đã dần xây dựng được hệ thống CNTT hiện đại, cốt lõi là hệ thống thông quan điện tử tự động VNACCS/VCIS và áp dụng thành công các hệ thống e-Manifest (trao đổi thông tin trước khi hàng đến), e-Payments (thanh toán thuế điện tử), e-C/O, e-Permits (thực hiện qua Cơ chế một cửa quốc gia, cơ chế một cửa ASEAN), VASSCM (giám sát tự động). Hệ thống CNTT hải quan những năm vừa qua đã đóng góp to lớn cho việc triển khai thành công thủ tục hải quan điện tử, đóng vai trò cốt lõi của hệ thống thông tin thuộc cơ chế một cửa quốc gia.

Bên cạnh những kết quả đạt được, việc triển khai dữ liệu số trong công tác huy động nguồn lực tài chính và quản lý thu NSNN cũng còn nhiều khó khăn, thách thức, như: Hiện nay, cơ sở dữ liệu thông tin về thuế còn hạn chế. Thiếu kho dữ liệu trung tâm, cơ sở dữ liệu thuế tập trung chưa được kết nối tự động với các bên thứ ba (các ngân hàng, các cơ quan của Chính phủ) nhằm tích hợp, phát hiện những thay đổi thông tin định danh về đăng ký thuế, thu nhập để đưa ra yêu cầu khai báo đầy đủ. Cơ sở dữ liệu tập trung tuy đã có thể cung cấp một lượng thông tin định danh nhận biết về cơ sở doanh nghiệp kinh doanh theo quy mô vốn (lớn, vừa và nhỏ), ngành nghề, lĩnh vực, kinh doanh..., nhưng chưa đảm bảo tính toàn vẹn, chính xác và tin cậy. Từ đó dẫn đến hậu quả làm hoạt động phân tích rủi ro thiếu chính xác, nguy cơ tiềm ẩn gãy chuỗi chức năng, gia tăng chi phí, giảm niềm tin tuân thủ thuế, quản lý thuế kém hiệu quả. Thông tin dữ liệu phân tán, chỉ phục vụ thực hiện thủ tục hành chính đơn lẻ. Dữ liệu hồ sơ, chứng từ đã được doanh nghiệp khai báo chưa được kế thừa và tận dụng để thực hiện các thủ tục hành chính khác liên quan tới doanh nghiệp.

Tính liên kết giữa các hệ thống số của ngành Tài chính còn yếu, dữ liệu giữa các lĩnh vực tài chính chưa thực sự liên thông; dữ liệu giữa Bộ Tài chính, cơ quan thu ngân sách với các ngành, địa phương, cơ quan thanh toán còn manh mún, phân tán; sự chia sẻ và kết nối dữ liệu còn yếu. Chưa số hóa đầy đủ và khai thác triệt để nhu cầu trao đổi thông tin giữa Cơ chế một cửa quốc gia và các bên liên quan; phần lớn do dữ liệu nằm phân tán và quy hoạch riêng rẽ theo lĩnh vực thực hiện thủ tục hành chính ở từng bộ, ngành.

Thiếu đồng bộ trong hệ thống CNTT cốt lõi của các cơ quan thu NSNN. Quản lý thuế hiện nay được hỗ trợ bởi một hệ thống khá đồ sộ với khoảng 30 phần mềm ứng dụng chuyên biệt. Bên cạnh những lợi ích thì sự phong phú này lại chính là một tồn tại lớn khi mà thực tế các phần mềm này có nhiều hạn chế trong tích hợp thông tin. Dữ liệu đầu vào của ứng dụng này hầu như không khai thác được từ dữ liệu đầu ra của ứng dụng khác. Mặc dù một số ứng dụng có sử dụng chung tài nguyên dữ liệu đầu vào, song do quy trình xử lý khác nhau, cộng với sự phân cấp hệ thống máy chủ ở các cấp cơ quan thuế khác nhau, địa phương khác nhau nên thực tế nhiều trường hợp kết quả không đảm bảo tính lôgic số liệu giữa các báo cáo. Tương tự, hệ thống thông tin cơ quan Hải quan hiện nay cũng còn manh mún, chưa đáp ứng được mục tiêu quản lý các nguồn thu hải quan cũng như sử dụng cơ sở dữ liệu vào xây dựng chính sách.

Định hướng giải pháp trong thời gian tới

Giải pháp về dữ liệu số tiếp tục nắm vai trò trọng tâm trong cải cách hành chính, nâng cao hiệu quả quản lý ngành Tài chính, đặc biệt là công tác quản lý thu NSNN. Chiến lược tài chính đến năm 2030 nhấn mạnh các giải pháp về dữ liệu số ngành Tài chính: “Xây dựng tài chính điện tử và cơ bản thiết lập nền tảng tài chính số hiện đại, công khai, minh bạch dựa trên dữ liệu lớn, dữ liệu mở, hệ sinh thái tài chính số, đảm bảo tính hiệu quả và an toàn thông tin toàn diện” và giải pháp về dữ liệu số trong lĩnh vực thuế, hải quan, cụ thể: “Xây dựng hệ thống thông tin quản lý thuế tích hợp, công khai, minh bạch, hiệu quả, phục vụ tốt người dân và doanh nghiệp, đảm bảo tính đồng bộ theo định hướng Chính phủ điện tử và chuyển đổi số. Xây dựng các nền tảng tích hợp, nền tảng dữ liệu lớn để cung cấp thông tin cho việc chỉ đạo điều hành, kết nối thông tin liên thông giữa cơ quan thuế với các cơ quan quản lý Nhà nước. Ứng dụng công nghệ của cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 nhằm tự động hóa một số quy trình nghiệp vụ quản lý thuế và phân tích dữ liệu lớn phục vụ công tác hoạch định chính sách, dự báo số thu, tuyên truyền hỗ trợ người nộp thuế, quản lý rủi ro, quản lý tuân thủ và thanh tra, kiểm tra, điều tra thuế...; Xây dựng hệ thống CNTT hải quan tập trung, tích hợp thông minh đảm bảo các yêu cầu về an toàn thông tin hệ thống, với nền tảng số, phù hợp với kiến trúc Chính phủ điện tử, Chính phủ số. Phát triển hệ thống CNTT thực hiện Cơ chế một cửa quốc gia, một cửa ASEAN sẵn sàng xử lý tập trung thủ tục hành chính của các bộ, ngành đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu”.

Kế hoạch chuyển đổi số của Bộ Tài chính đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 cũng nhấn mạnh: “Dữ liệu là tài nguyên mới. Bộ Tài chính cung cấp dữ liệu mở phục vụ phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số đối với lĩnh vực tài chính. Kết nối, chia sẻ dữ liệu để người dân chỉ phải khai báo, cung cấp dữ liệu một lần cho các cơ quan nhà nước và các đơn vị cung ứng dịch vụ công thiết yếu”.

Để đảm bảo nhiệm vụ số hóa dữ liệu trong công tác huy động nguồn lực trong thời gian tới, ngành Tài chính cần tập trung vào một số nhóm giải pháp sau: Thể chế hóa việc quản trị, thu thập, kết nối, lưu trữ, chia sẻ và phân tích dữ liệu, bảo mật thông tin về thu NSNN. Ban hành các quy định nhằm giải quyết những bất cập về kết nối, chia sẻ thông tin, dữ liệu giữa các bộ, cơ quan đã được quy định tại một số nghị định chuyên ngành của Chính phủ cũng như nhằm giải quyết những khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn chia sẻ thông tin theo cơ chế một cửa quốc gia.

Xây dựng và triển khai Đề án xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về thuế, hải quan, trong đó thiết kế kiến trúc dữ liệu tổng thể, các định dạng gói tin, danh mục, chỉ mục dữ liệu và dịch vụ dữ liệu chia sẻ, bảo đảm nguyên tắc mỗi loại dữ liệu chỉ giao một đầu mối cung cấp (bao gồm đánh giá hiện trạng và chuẩn hóa dữ liệu).

Đánh giá, tổng hợp, xây dựng tổng kho dữ liệu của cơ quan thuế, hải quan (gồm các kho dữ liệu: Kho dữ liệu nghiệp vụ chi tiết; kho dữ liệu nội ngành; kho dữ liệu ngoài ngành; kho dữ liệu dùng chung; kho dữ liệu phân tích tổng hợp; kho dữ liệu thống kê, báo cáo; kho dữ liệu tích hợp thông minh, hỗ trợ tác nghiệp) phục vụ quá trình thực hiện nghiệp vụ thuế, hải quan; đánh giá tình hình thu NSNN, thông tin thương mại, thuế quan, rủi ro trong thu, nộp thuế.

Rà soát, đánh giá hiện trạng các chứng từ, văn bản cần số hóa. Nghiên cứu, triển khai các giải pháp kỹ thuật, công nghệ để thực hiện số hóa kết nối, thu thập, xử lý dữ liệu, trong đó tập trung số hóa các chứng từ, văn bản quản lý nhà nước về thuế, hải quan (bao gồm cả dữ liệu quá khứ).

Tăng cường thực hiện việc trao đổi, kết nối và chuyển đổi số đối với các dữ liệu, chứng từ thuộc hồ sơ thuế, hải quan từ Hệ thống một cửa quốc gia với Hệ thống xử lý dữ liệu của ngành. Phối hợp với các bộ, ngành chuẩn hóa quy trình nghiệp vụ, rà soát danh mục chứng từ, văn bản thuộc thủ tục hành chính chuyên ngành cần thống nhất trên cơ sở một cửa quốc gia, đảm bảo thống nhất dữ liệu số hóa ngành Tài chính.

Hỗ trợ, hướng dẫn doanh nghiệp và các bên liên quan đẩy mạnh việc kết nối, trao đổi thông tin, chia sẻ dữ liệu với hệ thống CNTT của cơ quan thuế, hải quan, đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước về thuế, hải quan và tạo thuận lợi cho người dân và doanh nghiệp trong quá trình thực hiện thủ tục nộp thuế.                                                                      VVan    Nguồn: mof.gov.vn

videofileclient videofileclient

Thống kê truy cập

Số lượt truy cập: 1344

Tổng số lượt xem: 1157359