Truy cập nội dung luôn
SỞ TÀI CHÍNH

TỈNH QUẢNG NGÃI

TIN ĐA PHƯƠNG TIỆN


Bộ Tài chính vừa có công văn số 6506/BTC-CST gửi các Bộ, ngành, các cơ quan liên quan xin ý kiến về việc tiếp tục giảm lệ phí trước bạ (LPTB) đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước vào thời điểm từ 1/8/2024 cho đến hết ngày 31/01/2025.

Ảnh minh họa: Nguồn Internet

Lợi cho ngành ô tô trong nước

Đánh giá việc thực hiện giảm 50% mức thu LPTB đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước thời gian qua, Bộ Tài chính cho biết, kể từ khi dịch Covid – 19 bùng phát và nhanh chóng lan rộng ra các quốc gia trên thế giới, tác động nghiêm trọng đến sự phát triển kinh tế - xã hội các quốc gia. Sau dịch Covid – 19, nền kinh tế vẫn chưa thực sự được “vận hành” một cách bình thường. Để hỗ trợ phát triển kinh tế, kể từ năm 2020 đến 2023, Bộ Tài chính đã xây dựng, trình Chính phủ, trình Quốc hội ban hành nhiều chính sách giảm, giãn, hoãn nhiều loại thuế, phí và tiền thuê đất cho người dân và doanh nghiệp; trong đó, riêng mức thu LPTB được ban hành quy định giảm phí tại 03 Nghị định (Nghị định số 70/2020/NĐ-CP ngày 28/6/2020, Nghị định số 103/2021/NĐ-CP ngày 26/11/2021, Nghị định số 41/2023/NĐ-CP ngày 28/6/2023) giảm mức thu LPTB đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước với mức giảm lên tới 50%, mỗi lần giảm trong thời gian khoảng 6 tháng. Cụ thể: Nghị định số 70/2020/NĐ-CP ngày 28/6/2020 có hiệu lực từ ngày 28/6/2020 đến hết ngày 31/12/2020; Nghị định số 103/2021/NĐ-CP ngày 26/11/2021 có hiệu lực từ ngày 01/12/2021 đến hết ngày 31/5/2022; Nghị định số 41/2023/NĐ-CP ngày 28/6/2023 có hiệu lực từ ngày 01/7/2023 đến hết ngày 31/12/2023.

Kể từ ngày 01/1/2024, mức thu LPTB đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước được thực hiện theo Nghị định số 10/2022/NĐ-CP ngày 15/01/2022 của Chính phủ, theo đó mức thu LPTB đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước bằng mức thu LPTB đối với ô tô cùng loại.

Quá trình triển khai thực hiện chính sách giảm mức thu LPTB đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước thời gian qua về cơ bản đã đạt được các mục tiêu đề ra khi ban hành, có tác động tích cực đối với người tiêu dùng, nhà sản xuất và phân phối ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước nói riêng và đối với nền kinh tế nói chung.

Trong 6 tháng cuối năm 2020, thực hiện giảm 50% mức thu LPTB theo Nghị định số 70/2020/NĐ-CP, số lượng ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước đăng ký trước bạ lần đầu là 209.584 xe, bình quân 34.930 xe/tháng, tăng gấp 2,03 lần so với 6 tháng đầu năm 2020 (số lượng xe ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước đăng ký trước bạ lần đầu trong 6 tháng đầu năm 2020 là 102.924 xe, bình quân 17.574 xe/tháng).

Sang năm 2021, thực hiện giảm 50% mức thu LPTB kể từ tháng 12/2021 đến hết tháng 5/2022 theo Nghị định số 103/2021/NĐ-CP, số lượng ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước đăng ký trước bạ lần đầu là 232.192 xe, trong đó, số lượng ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước đăng ký trước bạ lần đầu tháng 12/2021 và 5 tháng đầu năm 2022 lần lượt là 63.742 và 168.450 xe. Trong năm 2022, bình quân số lượng ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước đăng ký trước bạ lần đầu 5 tháng đầu năm là 33.690 xe/tháng, cao hơn gấp 1,51 lần bình quân số lượng xe 7 tháng cuối năm (số lượng xe ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước đăng ký trước bạ lần đầu trong 7 tháng cuối năm 2022 là 155.423 xe, bình quân 22.203 xe/tháng).

Trong 6 tháng cuối năm 2023, thực hiện giảm 50% mức thu LPTB theo Nghị định số 41/2023/NĐ-CP ngày 28/6/2023 của Chính phủ, số lượng ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước đăng ký trước bạ lần đầu là 176.483 xe, bình quân 29.413 xe/tháng, tăng 1,6 lần so với 6 tháng đầu năm 2023 (số lượng xe ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước đăng ký trước bạ lần đầu trong 6 tháng đầu năm 2023 là 107.194 xe, bình quân 17.865 xe/tháng).

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đạt được cho ngành sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước cũng có những tác động tiêu cực đối với ngân sách nhà nước (NSNN) và về mặt cam kết quốc tế.

Tác động mạnh tới việc cân đối ngân sách

Tại Việt Nam, các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước đã bước đầu khẳng định vai trò, vị trí đối với thị trường ô tô trong nước và đã có bước phát triển mạnh mẽ cả về lượng và chất, đóng góp hàng tỷ USD vào NSNN. Tính đến hết năm 2022, cả nước có hơn 40 doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp ô tô với tổng công suất của các nhà máy ô tô tại Việt Nam theo thiết kế khoảng 755.000 xe/năm, trong đó khu vực có vốn đầu tư nước ngoài chiếm khoảng 35%, doanh nghiệp trong nước chiếm khoảng 65%, đáp ứng khoảng 70% nhu cầu xe dưới 9 chỗ trong nước. Đến năm 2025, dự kiến nhu cầu thị trường trong nước đạt khoảng 800 đến 900 nghìn xe/năm.

Thực tế thị trường ô tô các tháng cuối năm 2023 và đầu năm 2024, doanh số toàn thị trường ô tô 3 tháng đầu năm 2024 (bao gồm cả xe du lịch và xe thương mại) sụt giảm đáng kể. Theo báo cáo bán hàng của Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA), doanh số bán hàng các doanh nghiệp thuộc VAMA đạt 58.165 xe, giảm 17% so với cùng kỳ năm 2023.

Để góp phần kích thích tiêu dùng, hỗ trợ tài chính cho người dân, doanh nghiệp, tạo đà để phục hồi tăng trưởng cho ngành sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước trước bối cảnh nền kinh tế còn nhiều khó khăn, thách thức, Bộ Tài chính cho rằng, việc tiếp tục thực hiện giảm mức thu LPTB đối với xe ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước là một trong những giải pháp cần thiết.

Theo chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính trình Chính phủ tiếp tục giảm 50% mức thu LPTB kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành đến hết ngày 31/1/2025. Từ ngày 1/2/2025 trở đi mức thu LPTB tiếp tục thực hiện theo quy định tại Nghị định số 10/2022/NĐ-CP ngày 15/01/2022 của Chính phủ.

Đánh giá tác động đối với thu NSNN, theo tính toán của Bộ Tài chính, tại thời điểm năm 2020 và năm 2022, theo đánh giá, số giảm thu NSNN về LPTB khoảng 5.238 tỷ đồng, số tăng thu NSNN về thuế TTĐB, thuế GTGT khoảng 5.200 tỷ đồng.

Việc tiếp tục thực hiện chính sách giảm 50% mức thu LPTB đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước vào giai đoạn hiện nay thì việc tăng thu từ thuế TTĐB và thuế GTGT có thể sẽ không đủ để bù đắp cho việc giảm LPTB. Dự kiến, việc giảm 50% mức thu LPTB đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước có thể làm giảm thu NSNN về LPTB bình quân khoảng 867 tỷ đồng/tháng (tương đương mức giảm theo Nghị định số 41/2023/NĐ-CP).

Ngoài ra, việc giảm 50% mức thu LPTB đối với ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước có thể tác động đến cân đối thu NSNN của các địa phương. Theo quy định của Luật NSNN, khoản thu LPTB thuộc ngân sách địa phương. Việc giảm 50% mức thu LPTB đối với ô tô, sản xuất lắp ráp trong nước khả năng sẽ làm tăng số lượng xe ô tô tiêu thụ và đăng ký nên số thu từ LPTB, thuế TTĐB, thuế GTGT có thể tăng.

Tuy nhiên, số thu thực tế từ thuế TTĐB và thuế GTGT chỉ tập trung ở 8 địa phương nơi có các công ty sản xuất, lắp ráp ô tô trong nước, còn các địa phương khác đều giảm thu ngân sách địa phương từ chính sách này. Do đó, địa phương đã có yêu cầu ngân sách trung ương cấp bù khoản hụt thu này để đảm bảo cân đối ngân sách địa phương./.

 
26/06/2024

Phó Chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Trần Hoàng Tuấn vừa ký Quyết định số 743/QĐ-UBND ban hành Quy chế hoạt động của Đội ứng cứu sự cố an toàn thông tin mạng tỉnh Quảng Ngãi.

 

Đội ứng cứu sự cố an toàn thông tin mạng tỉnh Quảng Ngãi tham gia diễn tập

Đội ứng cứu sự cố có chức năng giám sát, kiểm tra, thực hiện các hoạt động ứng cứu sự cố an toàn thông tin mạng các cơ quan Nhà nước trên địa bàn tỉnh, phối hợp giám sát, kiểm tra, thực hiện các hoạt động ứng cứu cho các cơ quan Đảng, Đoàn thể, cảnh báo kịp thời các vấn đề an toàn, an ninh thông tin; triển khai thực hiện các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn an ninh thông tin; phối hợp, xây dựng các tiêu chuẩn kỹ thuật an toàn thông tin mạng trên địa bàn tỉnh; là đầu mối thực hiện hợp tác với các tổ chức An toàn thông tin mạng Quốc gia, Cục An toàn thông tin, Hiệp hội An toàn thông tin Việt Nam khu vực miền Trung, Cụm thành viên mạng lưới ứng cứu sự cố số 5.

Đội ứng cứu sự cố tỉnh Quảng Ngãi gồm có Đội trưởng, các Đội phó, Cơ quan thường trực Đội ứng cứu và các thành viên Đội ứng cứu.

Nhiệm vụ của Đội ứng cứu sự cố gồm: Lập và tổ chức thực hiện phương án xử lý khi có sự cố an toàn thông tin mạng trên địa bàn tỉnh; tổ chức, điều phối, hỗ trợ các cơ quan Đảng, đoàn thể chính trị - xã hội, các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước của tỉnh; phối hợp các cơ quan Trung ương trên địa bàn tỉnh trong công tác ứng cứu sự cố về máy tính và an toàn thông tin.

Thực hiện trách nhiệm thành viên đầu mối của tỉnh trong mạng lưới ứng cứu sự cố máy tính trên toàn quốc: liên kết, phối hợp với các bộ phận ứng cứu sự cố máy tính tại các tỉnh, thành phố khác và cơ quan điều phối, ứng cứu sự cố quốc gia.

Đội ứng cứu sự cố được quyền truy cập vào hệ thống mạng, hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu, dữ liệu nhật ký, log file của máy trạm, máy chủ của đơn vị bị tấn công mạng để phân tích, tìm hiểu nguyên nhân và đề xuất giải pháp khắc phục sự cố mất an toàn thông tin; việc thực hiện này được đặt dưới sự giám sát của đơn vị bị sự cố.

Cơ quan thường trực Đội ứng cứu sự cố có quyền điều động đột xuất các thành viên để thực hiện ứng cứu khi có sự cố xảy ra. Đối với mỗi sự cố cụ thể, cơ quan thường trực sẽ có sự điều động phù hợp để tổ chức ứng cứu.

Tham gia các khóa huấn luyện, diễn tập năng lực và phát triển nhân lực Đội ứng cứu sự cố. Tham gia hoạt động ứng cứu khẩn cấp sự cố an toàn thông tin mạng quốc gia khi có yêu cầu từ Bộ Thông tin và Truyền thông hoặc Cơ quan điều phối quốc gia về ứng cứu sự cố - VNCERT/CC, thuộc Cục An toàn thông tin, Bộ Thông tin và Truyền thông.

Tham gia các hoạt động của Mạng lưới ứng cứu sự cố an toàn thông tin mạng quốc gia; tham gia hoạt động phòng, chống chiến tranh thông tin, chiến tranh không gian mạng khi có yêu cầu của cơ quan chức năng.

Đối với hoạt động điều phối, ứng cứu sự cố quy định về danh mục các hoạt động nghiệp vụ; phân loại sự cố; tiếp nhận và xử lý thông báo, báo cáo sự cố; quy trình ứng cứu sự cố an toàn thông tin mạng; ứng cứu sự cố; đều phối ứng cứu sự cố; phát triển nguồn nhân lực Đội ứng cứu sự cố.

20/06/2024

Dịch vụ thanh toán điện tử của các ngân hàng thương mại (NHTM) đang mở ra nhiều cơ hội hợp tác với các doanh nghiệp, trường đại học nhằm cạnh tranh thu hút khách hàng, mở rộng thị phần.
 

Theo TS. Hoàng Nguyên Khai, trường ĐH Công nghệ TP HCM – HUTECH, chúng ta có thể tiên đoán được các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng tiện ích và hiện đại sẽ bị thay thế dựa trên tốc độ phát triển của công nghệ và những thành tựu mới nhất của kỹ thuật số.

Gợi mở những hợp tác

Thanh toán điện tử qua ngân hàng sẽ nhanh chóng thay thế các phương tiện thanh toán truyền thống, như tiền mặt, séc, thẻ tín dụng và ATM trong một số năm tới. Giữa các ngân hàng có nhu cầu cấp bách ứng dụng công nghệ số vào các dịch vụ tài chính tiện ích, hiện đại, an toàn để cung cấp cho khách hàng và các doanh nghiệp cung cấp giải pháp công nghệ số. Trong số đó có tỷ trọng khá là các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo (KNĐMST) hướng đến tham gia, thực hiện hợp đồng cung cấp giải pháp công nghệ, ứng dụng, vận hành.

Hợp đồng và văn bản bằng giấy sẽ bị thay thế tác động lớn đến quản lý rủi ro và quản lý hồ sơ trong ngân hàng. Sự ra đời của chữ ký số đã hình thành một giải pháp mới cho các doanh nghiệp nói chung, trong đó có cộng đồng ngân hàng – tài chính, đó là ký kết hợp đồng thông qua công nghệ điện toán đám mây. Đây là một thị trường đầy tiềm năng, một “mảnh đất màu mỡ” cho doanh nghiệp KNĐMST. Các doanh nghiệp KNĐMST có thể chủ động cung cấp giải pháp này cho các hoạt động kinh doanh dịch vụ nói chung và dịch vụ ngân hàng số nói riêng.

Việt Nam vẫn đang cố gắng phát triển thị trường thẻ, đây được coi là lĩnh vực cạnh tranh mạnh mẽ giữa các NHTM hiện nay. Tuy nhiên để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng thì phía các NHTM hợp tác và hình thành hệ sinh thái với DN KNĐMST cần có thêm nhiều giải pháp cụ thể về an ninh, bảo mật, đảm bảo an toàn các giao dịch của khách hàng, thường xuyên bảo trì hệ thống mạng và hệ thống máy ATM...

Khuyến nghị giải pháp

TS. Hoàng Nguyên Khai đã chỉ ra một số cơ hội hợp tác giữa các doanh nghiệp đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực công nghệ thông tin và ngành ngân hàng trong phát triển ngân hàng số.

Một là, các NHTM cần chủ động chia sẻ thông tin, hợp tác hình thành hệ sinh thái với các doanh nghiệp KNĐMST của Việt Nam, tham khảo kinh nghiệm quốc tế, đưa ra các giải pháp phù hợp thực tiễn Việt Nam trong phòng chống các hành vi, thủ đoạn mới của tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng số.

Hai là, các NHTM cần hợp tác hình thành hệ sinh thái với các doanh nghiệp KNĐMST có giải pháp công nghệ phù hợp thường xuyên cập nhật biện pháp ngăn chặn rủi ro dịch vụ thẻ, dịch vụ thanh toán điện tử trên thiết bị di động tại thị trường Việt Nam.

Ba là, các NHTM cần hợp tác hình thành hệ sinh thái với các doanh nghiệp KNĐMST, định kỳ tăng tính bảo mật, an toàn trong thanh toán qua thẻ ngân hàng, thanh toán điện tử dựa trên nền tảng công nghệ số.

Bốn là, các NHTM cần chủ động hơn nữa trong phối hợp, hình thành hệ sinh thái với doanh nghiệp KNĐMST nắm bắt những sản phẩm và dịch vụ ngân hàng số tiện ích mới xuất hiện trên thế giới, đầu tư ứng dụng vào ngân hàng mình.

Năm là, cần hình thành hệ sinh thái giữa doanh nghiệp KNĐMST của Việt Nam với các ngân hàng Việt Nam để đưa ra các giải pháp công nghệ nhận diện, phát hiện kịp thời các loại hình rủi ro trong hoạt động thẻ, đảm bảo an toàn hoạt động thanh toán.

Nguồn: https://diendandoanhnghiep.vn/

20/06/2024

Chi tiết theo tập tin đính kèm 10/06/2024

Theo số liệu báo cáo của Kho bạc Nhà nước Quảng Ngãi, tính đến ngày 31/01/2024, tổng số dư nợ tạm ứng nguồn vốn tỉnh quản lý là 1.903.315,930 triệu đồng, trong đó tổng số dư nợ tạm ứng quá hạn là 190.656,944 triệu đồng, chiếm 10% trên tổng số dư nợ tạm ứng (gồm: dự án do sở, ban ngành quản lý 88.863,878 triệu đồng, gồm 32 dự án/11 chủ đầu tư; dự án do UBND cấp huyện quản lý 101.793,066 triệu đồng, gồm 18 dự án/9 chủ đầu tư). Nguyên nhân quá hạn: (1)Nhóm nguyên nhân do chủ đầu tư/ban quản lý dự án giải thể là 364,281 triệu đồng, chiếm 0,19%; (2)Nhóm nguyên nhân do nhà thầu phá sản là 16.893,863 triệu đồng, chiếm 8,86%; (3)Nhóm nguyên nhân do dự án đình hoãn không thực hiện là 9.495,078 triệu đồng, chiếm 4,98%; (4)Nhóm nguyên nhân khác là 163.904,027 triệu đồng, chiếm 85,97%.

Trước tình hình này, Sở Tài chính Quảng Ngãi đã báo cáo và tham mưu UBND tỉnh chỉ đạo đôn đốc, thu hồi nợ tạm ứng quá hạn tại Công văn số 1643/UBND-KTTH ngày 02/4/2024, theo đó:

- Yêu cầu Thủ trưởng các cơ quan, đơn vị, địa phương có dư nợ tạm ứng quá hạn tập trung chỉ đạo chủ đầu tư dự án:

+ Thực hiện tạm ứng và thu hồi tạm ứng vốn đầu tư đảm bảo đúng quy định tại Nghị định số 99/2021/NĐ-CP ngày 11/11/2021 của Chính phủ quy định về quản lý, thanh toán, quyết toán dự án sử dụng vốn đầu tư công.

+ Nghiêm túc triển khai thực hiện công tác thu hồi nợ tạm ứng quá hạn theo nội dung chỉ đạo của Chủ tịch UBND tỉnh tại Công văn số 6125/UBND-KTTH ngày 04/12/2023.

+ Chủ động phối hợp với các cơ quan, đơn vị, địa phương có liên quan để kịp thời tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong việc thu hồi nợ tạm ứng quá hạn.

- Yêu cầu KBNN Quảng Ngãi:

+ Thực hiện tạm ứng và thu hồi tạm ứng vốn đầu tư đảm bảo đúng quy định tại Nghị định số 99/2021/NĐ-CP ngày 11/11/2021 của Chính phủ quy định về quản lý, thanh toán, quyết toán dự án sử dụng vốn đầu tư công.

+ Triển khai thực hiện có hiệu quả công tác thu hồi nợ tạm ứng quá hạn theo nội dung chỉ đạo của Chủ tịch UBND tỉnh tại Công văn số 6125/UBND-KTTH ngày 04/12/2023, trong đó lưu ý có nội dung yêu cầu KBNN trích tài khoản tiền gửi của chủ đầu tư để thu về ngân sách nhà nước.

+ Thường xuyên đôn đốc, nhắc nhở các chủ đầu tư kịp thời thanh toán hoàn ứng, tránh để dư nợ tạm ứng lớn dễ dẫn đến quá hạn; kịp thời có biện pháp xử lý đối với các chủ đầu tư để phát sinh nợ tạm ứng quá hạn./.        V.T.X.Diệu.

22/04/2024

Sở Tài chính Quảng Ngãi vừa có văn bản công khai kết quả giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công đến ngày 31/3/2024 tại Công văn số 1193/STC-TCĐT ngày 11/4/2024, theo đó nhiều cơ quan, đơn vị, địa phương thực hiện công tác giải ngân chưa đảm bảo kế hoạch đề ra.

Theo số liệu thống kê từ Sở Tài chính tỉnh Quảng Ngãi đến ngày 31/3/2024, tổng kế hoạch vốn đầu tư công năm 2024 được UBND tỉnh giao cho các cơ quan, đơn vị, địa phương 6.256,693 tỷ đồng, trong đó: vốn giao đầu năm 5.758,052 tỷ đồng (gồm: vốn địa phương 4.503,930 tỷ đồng, vốn trung ương 1.254,122 tỷ đồng); vốn bổ sung ngoài kế hoạch 192,307 tỷ đồng (gồm: vốn trung ương 150 tỷ đồng, huyện và xã giao tăng 42,307 tỷ đồng); vốn kéo dài 306,334 tỷ đồng (vốn trung ương). Lũy kế giải ngân đến ngày 31/3/2024 là 461,097 tỷ đồng, đạt 7,4% so với kế hoạch vốn giao, trong đó: Vốn giao đầu năm 438,464 tỷ đồng, đạt 7,6% kế hoạch vốn giao; vốn bổ sung ngoài kế hoạch 22,233 tỷ đồng, đạt 11,6% kế hoạch vốn giao; vốn kéo dài 0,004 tỷ đồng, đạt 0,1% kế hoạch vốn giao.

Qua số liệu giải ngân vốn đầu tư công nêu trên cho thấy tỷ lệ giải ngân 3 tháng đầu năm chưa đạt kế hoạch đề ra, thấp hơn so với cùng kỳ năm trước (8,6%). Để đẩy nhanh tiến độ giải ngân, Sở Tài chính kính đề nghị các cơ quan, đơn vị, địa phương chủ động thực hiện quyết liệt, đồng bộ, hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đẩy mạnh giải ngân vốn đầu tư công năm 2024 theo đúng tinh thần chỉ đạo của Chủ tịch UBND tỉnh tại Chỉ thị số 01/CT-UBND ngày 03/01/2024 về việc đẩy nhanh tiến độ phân bổ và giải ngân vốn đầu tư công năm 2024./.        V.T.X.Diệu.

22/04/2024

Công khai tình hình thực hiện ngân sách địa phương Quý I năm 2024 12/04/2024

Ngày 22/3/2024, tại trụ sở Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Bộ Tài chính phối hợp với EVN tổ chức Hội nghị truyền hình bằng hình thức trực tuyến về triển khai Nghị định số 02/2024/NĐ-CP ngày 10/01/2024 của Chính phủ về việc chuyển giao công trình điện là tài sản công sang Tập đoàn Điện lực Việt Nam.

Hội nghị được kết nối tới 63 tỉnh, thành phố, các bộ ngành và các điểm cầu cấp huyện trong cả nước; tại điểm cầu Quảng Ngãi do đồng chí Phạm Hữu Thịnh, Phó Giám đốc Sở Tài chính chủ trì, cùng dự tại điểm cầu Quảng Ngãi có lãnh đạo Công ty Điện lực Quảng Ngãi, Lãnh đạo Văn phòng UBND tỉnh, Sở Công Thương, Sở Xây dựng; các phòng, ban UBND thành phố, huyện Tư Nghĩa và các phòng, ban thuộc Công ty Điện lực Quảng Ngãi.

Tại Hội nghị, đồng chí Nguyễn Tân Thịnh, Cục trưởng Cục Quản lý công sản Bộ Tài chính trình bày một số nội dung chính của Nghị định và trả lời một số câu hỏi vướng mắc do các Bộ, ngành địa phương đề nghị.

Ngoài ra, tại Hội nghị thay mặt EVN bà Bùi Thúy Quỳnh - Phó Trưởng Ban Kinh doanh đã công bố các đơn vị điện lực được Tập đoàn Điện lực Việt Nam phân công, ủy quyền làm Bên nhận chuyển giao công trình điện là tài sản công theo Nghị định số 02/2024/NĐ-CP ngày 10/01/2024 của Chính phủ./.                V.Đ.Hiếu. 27/03/2024

Sở Tài chính Quảng Ngãi vừa có các văn bản đề xuất kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023 sang năm 2024 đối với các dự án được bố trí từ nguồn ngân sách địa phương tại Công văn số 725/STC-TCĐT ngày 06/3/2024 và Công văn số 842/STC-TCĐT ngày 15/3/2024; theo đó, Sở Tài chính đã loại bỏ 32 dự án chưa đảm bảo đủ các điều kiện quy định, tương ứng với số vốn 53.199,27 triệu đồng.

Theo số liệu thống kê từ Sở Tài chính tỉnh Quảng Ngãi; đến cuối tháng 2 năm 2024, có 22 đơn vị, địa phương đề xuất xin kéo dài thời gian thực hiện và giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công năm 2023 sang năm 2024 là 420 dự án với số vốn 699.149,554 triệu đồng. Căn cứ Luật Ngân sách nhà nước năm 2015; Luật Đầu tư công năm 2019; các Nghị quyết của Quốc hội: số 104/2023/QH15 ngày 10/11/2023 về dự toán ngân sách nhà nước năm 2024, số 110/2023/QH15 ngày 29/11/2023; các Nghị định của Chính phủ: số 163/2016/NĐ-CP ngày 21/12/2016 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Ngân sách nhà nước, số 40/2020/NĐ-CP ngày 06/4/2020 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Đầu tư công; Công văn số 7290/KBNN-KTNN ngày 15/12/2023 của Bộ Tài chính về việc hướng dẫn công tác khóa sổ kế toán niên độ 2023. Qua kết quả thẩm tra, Sở Tài chính đã tham mưu trình cấp có thẩm quyền cho phép kéo dài là 388 dự án, tương ứng với tổng số vốn 645.950,284 triệu đồng (gồm: dự án cấp tỉnh quản lý là 22 dự án, tương ứng với số vốn 434.781,040 triệu đồng; dự án cấp huyện là 249 dự án, tương ứng với số vốn 195.069,895 triệu đồng; dự án kéo dài cấp xã quản lý là 117 dự án, tương ứng với số vốn 16.099,349 triệu đồng), số dự án loại bỏ vì chưa đảm bảo đủ các điều kiện quy định là 32 dự án, tương ứng với số vốn là 53.199,27 triệu đồng và Sở Tài chính đã thông báo cho các đơn vị, địa phương được biết tại Công văn số 748/STC-TCĐT ngày 07/3/2024./.          BTNương. 26/03/2024

Theo báo cáo của Sở Tài chính về tình hình ước thực hiện nhiệm vụ thu NSNN và chi ngân sách địa phương lũy kế đến hết tháng 3/2024 tại Báo cáo số 28/BC-STC ngày 15/3/2024. Theo đó, quý I năm 2024 tỉnh Quảng Ngãi thu ngân sách ước đạt 33,2% dự toán năm, bằng 115,6% so với cùng kỳ năm trước và chi ngân sách địa phương ước đạt 16,4% dự toán năm và bằng 119,8% so với cùng kỳ năm trước.

Cụ thể, Thu ngân sách trên địa bàn: tháng 3 năm 2024 ước đạt 2.169 tỷ đồng, lũy kế thu quý 1 năm 2024 ước đạt 8.488 tỷ đồng, bằng 33,2% dự toán năm và bằng 115,6% so với cùng kỳ năm trước; Bao gồm: Thu nội địa tháng 3 năm 2024 ước đạt 1.544 tỷ đồng, lũy kế thu quý 1 năm 2024 ước đạt 5.568 tỷ đồng, bằng 31,6% dự toán năm và bằng 103,2% so với cùng kỳ năm trước; Trong đó: Thu từ Nhà máy lọc dầu Dung Quất tháng 3 năm 2024 ước đạt 929 tỷ đồng, lũy kế thu quý 1 năm 2024 ước đạt 3.245 tỷ đồng, bằng 39,5% dự toán năm và bằng 103,9% so với cùng kỳ năm trước; Thu tiền sử dụng đất tháng 3 năm 2024 ước đạt 61 tỷ đồng, lũy kế thu quý 1 năm 2024 ước đạt 124 tỷ đồng, bằng 4,8% dự toán năm và bằng 77,7% so với cùng kỳ năm trước; Các khoản thu còn lại tháng 3 năm 2024 ước đạt 554 tỷ đồng, lũy kế thu quý 1 năm 2024 ước đạt 2.199 tỷ đồng, bằng 32,2% dự toán năm và bằng 104,1% so với cùng kỳ năm trước. Thu hoạt động xuất nhập khẩu tháng 3 năm 2024 ước đạt 625 tỷ đồng, lũy kế thu quý 1 năm 2024 ước đạt 2.921 tỷ đồng, bằng 37,5% dự toán năm và bằng 149,9% so với cùng kỳ năm trước.

Thu ngân sách địa phương: tháng 3 năm 2024 ước đạt 1.445 tỷ đồng, lũy kế thu quý 1 năm 2024 ước đạt 7.380 tỷ đồng, bằng 39,7% dự toán năm và bằng 93,2% so với cùng kỳ năm trước; trong đó: Thu cân đối phần NSĐP được hưởng theo phân cấp: tháng 3 ước đạt 1.445 tỷ đồng, lũy kế thu quý 1 năm 2024 ước đạt 5.205 tỷ đồng, bằng 32,1% dự toán năm và bằng 106,5% so với cùng kỳ năm trước. Thu bổ sung từ ngân sách trung ương: lũy kế thu quý 1 năm 2024 ước đạt 2.175 tỷ đồng, bằng 97,8% dự toán năm và bằng 71,8% so với cùng kỳ năm trước.

Công tác chi cân đối ngân sách địa phương tháng 3 năm 2024 ước đạt 1.292 tỷ đồng, lũy kế chi quý 1 năm 2024 ước đạt 3.049 tỷ đồng, bằng 16,4% dự toán năm và bằng 119,8% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó: Chi đầu tư phát triển tháng 3 ước đạt 536 tỷ đồng, lũy kế chi quý 1 năm 2024 ước đạt 856 tỷ đồng, bằng 16,8% so với dự toán năm và bằng 189,7% so với cùng kỳ năm trước; Chi thường xuyên tháng 3 ước đạt 691 tỷ đồng, lũy kế chi quý 1 năm 2024 ước đạt 2.030 tỷ đồng, bằng 19,5% dự toán năm và bằng 103,6% so với cùng kỳ năm trước; Chi thực hiện các Chương trình mục tiêu từ ngân sách trung ương tháng 3 ước đạt 65 tỷ đồng, lũy kế chi quý 1 năm 2024 ước đạt 161 tỷ đồng, bằng 7,3% dự toán năm và bằng 121,4% so với cùng kỳ năm trước.

Để tăng cường các biện pháp quản lý thu, phấn đấu hoàn thành đạt và vượt mức dự toán thu ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh năm 2024; quản lý chặt chẽ, triệt để tiết kiệm chi, nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng ngân sách nhà nước, đảm bảo nguồn lực tài chính, chủ động trong điều hành chi ngân sách địa phương, góp phần hoàn thành toàn diện các chỉ tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2024. UBND tỉnh đã chỉ đạo các sở, ban, ngành, UBND các huyện, thị xã, thành phố tăng cường các biện pháp thu ngân sách nhà nước và chi ngân sách địa phương năm 2024 tại Chỉ thị số 02/CT-UBND ngày 16/01/2024./.                      P.T.T.Hường 26/03/2024

Thống kê truy cập

Số lượt truy cập: 2324

Tổng số lượt xem: 1208153